Số nghiên cứu sinh tốt nghiệp tại các trường đại học Úc tiếp tục gia tăng với hơn 8 nghìn người năm 2014 và khoảng một phần ba trong số đó thuộc về các ngành STEM như khoa học, công nghệ, cơ khí và toán.
Ước tính chính xác nhất của chúng ta là khoảng nửa số nghiên cứu sinh này sẽ bắt đầu sự nghiệp học thuật của mình với vai trò là một nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ hay trợ lý nghiên cứu.
Nhưng sau một thời gian thì đa số sẽ không còn làm các công việc liên quan đến học thuật và rất hiếm khi quay trở lại các công việc này.
Chỉ có khoảng 2 phần trăm những người tốt nghiệp PhD có thể tiến đến mức giáo sư và hài lòng với ưu tiên có một sự nghiệp không bị cắt ngang.
Các chọn lựa và mong đợi
Hầu hết những nghiên cứu sinh sau khi tốt nghiệp bị thôi thúc bởi đam mê đối với lĩnh vực mà họ dành nhiều năm để nghiên cứu. Một số người được thuyết phục với hứa hẹn là họ một ngày nào đó sẽ có một sự nghiệp nghiên cứu của riêng mình, như những người hướng dẫn cho họ.
Thực tế của việc phải tranh dành các khoản tiền quỹ, áp lực phải đưa ra kết quả rất nặng và các quy định cấp ngân sách cứng ngắc cùng những hợp đồng 12 tháng thường là một gáo nước lạnh và không được chào đón.
Nhưng những nghiên cứu sinh hiện đại không chỉ được đào tạo để thực hiện những nghiên cứu chuyên biệt. Nó cũng cho họ sự chuẩn bị rộng hơn trước các công việc đa dạng khác nhau.
Một bằng tiến sĩ cho mọi người khả năng tư duy nhạy bén, đánh giá vấn đề trong bối cảnh kiến thức rộng hơn và đưa ra những giải pháp riêng biệt một cách độc lập. Nó cũng cho họ khả năng giao tiếp và trình bày rõ ràng các giải pháp.
Bất kể họ tìm cơ hội nghề nghiệp trong ngành học thuật hay không, người tốt nghiệp với bằng tiến sĩ trong các ngành STEM có khả năng được nhận vào làm việc cao và có mức lương cao hơn người tốt nghiệp đại học và các bằng cao học từ những ngành khác sau 5 năm tốt nghiệp.
Điều này được chính phủ nhìn nhận là tích cực đối với nền kinh tế. Những người với bằng tiến sĩ trong các ngành STEM ngày càng được chính phủ, các ngành công nghiệp và bộ phận cộng đồng nhận vào làm như là với những người mới tốt nghiệp giỏi nhất trên thị trường.
Vì vậy, chúng ta phải nỗ lực hơn để giúp nghiên cứu sinh hiểu rằng việc đào tạo của họ mở ra nhiều khả năng, và nghiên cứu học thuật chỉ là một trong số đó. Chúng ta cũng cần hỗ trợ những nghiên cứu sinh khám phá điều phù hợp cho họ nhất.
Chúng ta cần có các quy trình nhập học, hướng dẫn, phát triển kỹ năng và cơ hội thực tập. Bằng cách đó những người tốt nghiệp được đào tạo cao nhất của chúng ta có thể chuẩn bị tốt hơn để tiếp nhận nhiều cơ hội mà một bằng tiến sĩ sẽ mang lại.
Đối với những người ở lại trong ngành học thuật
Một trong những vấn đề chúng ta cần nhắc đến là làm cách nào để lên kế hoạch và đạt được cuộc sống cân bằng cho những nhà nghiên cứu lão thành, người mới vào nghề và ở giữa sự nghiệp ở mọi lĩnh vực. Chúng ta cần làm điều này với việc tạo ra cơ hội bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ và những người từ các nền văn hóa đa dạng để bồi dưỡng nguồn cung cấp những nhà nghiên cứu mới tài năng cho tương lai.
Nhưng cả Hội đồng Nghiên cứu Sức khỏe và Y khoa (NHMRC) và Hội đồng Nghiên cứu Úc (ARC) đều gặp khó khăn trong việc phát triển các chương trình để phát triển và bồi dưỡng sự nghiệp nghiên cứu đồng thời hỗ trợ các đề án được đánh giá bởi đồng nghiệp để có thể chọn ra các ý tưởng nghiên cứu tốt và xứng đáng nhất.
Một trong những chương trình đang thay đổi tình thế và mở ra cơ hội ở một mức độ nào đó là chương trình ARC Future Fellowship. Viện Hàn lâm Khoa học đã ủng hộ và tác động mạnh mẽtrước khi chương trình này được thành lập năm 2009, cũng như để nó tiếp tục khi bị đe dọa bởi việc cắt ngân sách gần đây.
Nhưng với ngân sách dành cho chỉ có 100 vị trí Future Fellowship mỗi năm, chương trình này chỉ là giọt nước giữa biển. Rõ ràng cần thực hiện nhiều chương trình hơn nữa.
Đầu tư vào năng lực
Úc bắt đầu nhận ra rằng để có thể thành công trên đấu trường kinh tế thế giới, chúng ta cần phải tiến vào kỷ nguyên sáng tạo. Nghị trình Sáng tạo và Khoa học của Thủ tướng Malcolm được công bố vào năm ngoái đã bắt đầu quy trình này.
Nhiều người tranh luận rằng Úc cần đầu tư khoảng 3 phần trăm GDP vào khoa học và nghiên cứu để có thể giữ nhịp với các nước thành công trong sáng tạo phát triển.
Để đạt được điều này, Úc phải cam kết thêm 5 tỷ đô Úc mỗi năm vào ngân sách công dành cho nghiên cứu để tăng thêm 10 tỷ đô mỗi năm vào nghiên cứu và phát triển công nghiệp. Đây không phải là một việc dễ dàng và không phải điều có thể diễn ra nhanh chóng.
Chỉ khi có những cam kết đầu tư mạnh mẽ vào khu vực nghiên cứu mới có thể đổi trọng tâm sang phát triển nguồn lực này về lâu dài.
Nhưng kế hoạch tài chính theo quý của chính phủ (và ngành công nghiệp) thường không sẵn sàng đưa ra những cam kết lâu dài và có khả năng rút chúng về các chương trình ngắn hạn vì điều này giúp cho phép tối đa khả năng thay đổi nguồn lực một cách linh động để phản ứng với những nhu cầu.
Thông điệp mà chúng ta cần tăng cường nhắc đến là một nghiên cứu tốt không thể thực hiện từng chút một. Cần loại bỏ một môi trường mà những khoản đầu tư ngắn hạn cho nghiên cứu ngắn hạn là bình thường và tiến tới một khung kế hoạch cho những chương trình rộng, sâu và lâu dài hơn sẽ ngay lập tức tạo ra công cụ mà sự nghiệp của các nghiên cứu có thể gắn liền.
Xem lại đào tạo nghiên cứu
Nhìn riêng vào việc đào tạo nghiên cứu, chúng ta cần đảm bảo hàng nghìn PhD tốt nghiệp mỗi năm cần được chuẩn bị (và không bị sốc quá) về thực tế và nhiều người trong số họ sẽ cuối cùng làm việc trong chính phủ hay các ngành công nghiệp thay vì học thuật.
Cũng cần có nhu cầu giúp sinh viên có hay nhận thức được những kỹ năng mà họ có thể dùng cho các công việc khác nhau. Công việc tại các ngành công nghiệp, chính phủ và bộ phận cộng đồng có thể cho sinh viên cơ hội tiếp cận với các cơ hội làm việc bên ngoài ngành học thuật. Nó cũng cho các nhà tuyển dụng thấy được những kỹ năng của những người tốt nghiệp PhD.
Chúng ta cần phải nỗ lực hơn để giúp đỡ và khuyến khích những nhà nghiên cứu khoa học thông thái và có khả năng nhất tại mọi cấp độ để có thể tỏa sáng trong lĩnh vực nghiên cứu. Bằng cách này chúng ta sẽ chuẩn bị tốt hơn cho những người tốt nghiệp được đào tạo cao nhất đóng góp cho xã hội qua những những công việc và sự nghiệp bên ngoài giới hàn lâm.
Les Field là Thư ký của Chính sách Khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học Úc và là Hiệu Phó cấp cao của Đại học New South Wales. Andrew Holmes là chủ tịch của Viện Hàn lâm Khoa học Úc và là Giáo sư Danh dự của Đại học Melbourne.

Những người tốt nghiệp trong các ngành STEM dễ được nhận vào làm hơn các ngành khác.
Ảnh được cung cấp: CSIRO
Ước tính chính xác nhất của chúng ta là khoảng nửa số nghiên cứu sinh này sẽ bắt đầu sự nghiệp học thuật của mình với vai trò là một nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ hay trợ lý nghiên cứu.
Nhưng sau một thời gian thì đa số sẽ không còn làm các công việc liên quan đến học thuật và rất hiếm khi quay trở lại các công việc này.
Chỉ có khoảng 2 phần trăm những người tốt nghiệp PhD có thể tiến đến mức giáo sư và hài lòng với ưu tiên có một sự nghiệp không bị cắt ngang.
Các chọn lựa và mong đợi
Hầu hết những nghiên cứu sinh sau khi tốt nghiệp bị thôi thúc bởi đam mê đối với lĩnh vực mà họ dành nhiều năm để nghiên cứu. Một số người được thuyết phục với hứa hẹn là họ một ngày nào đó sẽ có một sự nghiệp nghiên cứu của riêng mình, như những người hướng dẫn cho họ.
Thực tế của việc phải tranh dành các khoản tiền quỹ, áp lực phải đưa ra kết quả rất nặng và các quy định cấp ngân sách cứng ngắc cùng những hợp đồng 12 tháng thường là một gáo nước lạnh và không được chào đón.
Nhưng những nghiên cứu sinh hiện đại không chỉ được đào tạo để thực hiện những nghiên cứu chuyên biệt. Nó cũng cho họ sự chuẩn bị rộng hơn trước các công việc đa dạng khác nhau.
Một bằng tiến sĩ cho mọi người khả năng tư duy nhạy bén, đánh giá vấn đề trong bối cảnh kiến thức rộng hơn và đưa ra những giải pháp riêng biệt một cách độc lập. Nó cũng cho họ khả năng giao tiếp và trình bày rõ ràng các giải pháp.
Bất kể họ tìm cơ hội nghề nghiệp trong ngành học thuật hay không, người tốt nghiệp với bằng tiến sĩ trong các ngành STEM có khả năng được nhận vào làm việc cao và có mức lương cao hơn người tốt nghiệp đại học và các bằng cao học từ những ngành khác sau 5 năm tốt nghiệp.
Điều này được chính phủ nhìn nhận là tích cực đối với nền kinh tế. Những người với bằng tiến sĩ trong các ngành STEM ngày càng được chính phủ, các ngành công nghiệp và bộ phận cộng đồng nhận vào làm như là với những người mới tốt nghiệp giỏi nhất trên thị trường.
Vì vậy, chúng ta phải nỗ lực hơn để giúp nghiên cứu sinh hiểu rằng việc đào tạo của họ mở ra nhiều khả năng, và nghiên cứu học thuật chỉ là một trong số đó. Chúng ta cũng cần hỗ trợ những nghiên cứu sinh khám phá điều phù hợp cho họ nhất.
Chúng ta cần có các quy trình nhập học, hướng dẫn, phát triển kỹ năng và cơ hội thực tập. Bằng cách đó những người tốt nghiệp được đào tạo cao nhất của chúng ta có thể chuẩn bị tốt hơn để tiếp nhận nhiều cơ hội mà một bằng tiến sĩ sẽ mang lại.
Đối với những người ở lại trong ngành học thuật
Một trong những vấn đề chúng ta cần nhắc đến là làm cách nào để lên kế hoạch và đạt được cuộc sống cân bằng cho những nhà nghiên cứu lão thành, người mới vào nghề và ở giữa sự nghiệp ở mọi lĩnh vực. Chúng ta cần làm điều này với việc tạo ra cơ hội bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ và những người từ các nền văn hóa đa dạng để bồi dưỡng nguồn cung cấp những nhà nghiên cứu mới tài năng cho tương lai.
Nhưng cả Hội đồng Nghiên cứu Sức khỏe và Y khoa (NHMRC) và Hội đồng Nghiên cứu Úc (ARC) đều gặp khó khăn trong việc phát triển các chương trình để phát triển và bồi dưỡng sự nghiệp nghiên cứu đồng thời hỗ trợ các đề án được đánh giá bởi đồng nghiệp để có thể chọn ra các ý tưởng nghiên cứu tốt và xứng đáng nhất.
Một trong những chương trình đang thay đổi tình thế và mở ra cơ hội ở một mức độ nào đó là chương trình ARC Future Fellowship. Viện Hàn lâm Khoa học đã ủng hộ và tác động mạnh mẽtrước khi chương trình này được thành lập năm 2009, cũng như để nó tiếp tục khi bị đe dọa bởi việc cắt ngân sách gần đây.
Nhưng với ngân sách dành cho chỉ có 100 vị trí Future Fellowship mỗi năm, chương trình này chỉ là giọt nước giữa biển. Rõ ràng cần thực hiện nhiều chương trình hơn nữa.
Đầu tư vào năng lực
Úc bắt đầu nhận ra rằng để có thể thành công trên đấu trường kinh tế thế giới, chúng ta cần phải tiến vào kỷ nguyên sáng tạo. Nghị trình Sáng tạo và Khoa học của Thủ tướng Malcolm được công bố vào năm ngoái đã bắt đầu quy trình này.
Nhiều người tranh luận rằng Úc cần đầu tư khoảng 3 phần trăm GDP vào khoa học và nghiên cứu để có thể giữ nhịp với các nước thành công trong sáng tạo phát triển.
Để đạt được điều này, Úc phải cam kết thêm 5 tỷ đô Úc mỗi năm vào ngân sách công dành cho nghiên cứu để tăng thêm 10 tỷ đô mỗi năm vào nghiên cứu và phát triển công nghiệp. Đây không phải là một việc dễ dàng và không phải điều có thể diễn ra nhanh chóng.
Chỉ khi có những cam kết đầu tư mạnh mẽ vào khu vực nghiên cứu mới có thể đổi trọng tâm sang phát triển nguồn lực này về lâu dài.
Nhưng kế hoạch tài chính theo quý của chính phủ (và ngành công nghiệp) thường không sẵn sàng đưa ra những cam kết lâu dài và có khả năng rút chúng về các chương trình ngắn hạn vì điều này giúp cho phép tối đa khả năng thay đổi nguồn lực một cách linh động để phản ứng với những nhu cầu.
Thông điệp mà chúng ta cần tăng cường nhắc đến là một nghiên cứu tốt không thể thực hiện từng chút một. Cần loại bỏ một môi trường mà những khoản đầu tư ngắn hạn cho nghiên cứu ngắn hạn là bình thường và tiến tới một khung kế hoạch cho những chương trình rộng, sâu và lâu dài hơn sẽ ngay lập tức tạo ra công cụ mà sự nghiệp của các nghiên cứu có thể gắn liền.
Xem lại đào tạo nghiên cứu
Nhìn riêng vào việc đào tạo nghiên cứu, chúng ta cần đảm bảo hàng nghìn PhD tốt nghiệp mỗi năm cần được chuẩn bị (và không bị sốc quá) về thực tế và nhiều người trong số họ sẽ cuối cùng làm việc trong chính phủ hay các ngành công nghiệp thay vì học thuật.
Cũng cần có nhu cầu giúp sinh viên có hay nhận thức được những kỹ năng mà họ có thể dùng cho các công việc khác nhau. Công việc tại các ngành công nghiệp, chính phủ và bộ phận cộng đồng có thể cho sinh viên cơ hội tiếp cận với các cơ hội làm việc bên ngoài ngành học thuật. Nó cũng cho các nhà tuyển dụng thấy được những kỹ năng của những người tốt nghiệp PhD.
Chúng ta cần phải nỗ lực hơn để giúp đỡ và khuyến khích những nhà nghiên cứu khoa học thông thái và có khả năng nhất tại mọi cấp độ để có thể tỏa sáng trong lĩnh vực nghiên cứu. Bằng cách này chúng ta sẽ chuẩn bị tốt hơn cho những người tốt nghiệp được đào tạo cao nhất đóng góp cho xã hội qua những những công việc và sự nghiệp bên ngoài giới hàn lâm.
Les Field là Thư ký của Chính sách Khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học Úc và là Hiệu Phó cấp cao của Đại học New South Wales. Andrew Holmes là chủ tịch của Viện Hàn lâm Khoa học Úc và là Giáo sư Danh dự của Đại học Melbourne.
Nguồn: Australiaplus
nuocuc.net / Nước Úc (Tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét